• About

The Nature of The Beauty

The Nature of The Beauty

Category Archives: Urban

Gallery

Tìm hiểu về sự xói mòn ven bờ và các giải pháp kiểm soát

30 Sunday Aug 2020

Posted by claredelune in Urban

≈ Leave a comment

This gallery contains 29 photos.

(UNDERSTANDING COASTAL EROSION AND CONTROL SOLUTIONS)

Lý thuyết phục hồi sự tập trung

30 Sunday Aug 2020

Posted by claredelune in Uncategorized, Urban

≈ Leave a comment

Dành thời gian tiếp xúc với thiên nhiên, bằng cách ngắm hoàng hôn, nhìn ra đại dương hoặc núi non, ngồi trong công viên, trốn về vùng nông thôn hoặc nơi nghỉ dưỡng thiên nhiên, hoặc thậm chí chỉ dành vài phút để nhìn ra ngoài cửa sổ, mang đến cho chúng ta cơ hội nghỉ ngơi, phản ánh và phục hồi chính bản thân chúng ta.

Chúng ta có thể đã nhận ra hiện tượng này trước đây; đã bao giờ chúng ta trải qua một ngày khó khăn hoặc cảm thấy chán nản nhưng lại thấy mình bị phân tâm bởi một cảnh đẹp? Mỗi chúng ta, ít nhất có một câu chuyện về cách cải thiện trạng thái tâm trí của mình.

Trải nghiệm chung này thể hiện vai trò quý giá của thiên nhiên đối với cuộc sống của chúng ta và gợi ý về một vai trò tiềm năng khác: góp phần khắc phục sự mệt mỏi về tinh thần, cải thiện khả năng tập trung và hướng sự tập trung của chúng ta một cách hiệu quả.

Thế giới tự nhiên thường được mô tả như một môi trường phục hồi để bổ sung nguồn lực cho con người, trong khi môi trường đô thị đông đúc, bận rộn thường được coi là nơi thu hút sự chú ý và tiêu hao năng lượng (mặc dù không phải lúc nào cũng vậy – các thành phố bận rộn có thể là nơi tuyệt vời để tìm cảm hứng và năng lượng khi ở đúng khung cảnh mà tâm hồn cần). Mặc dù những niềm tin này từ lâu chỉ được coi là ý kiến ​​và quan điểm cá nhân, nhưng vài thập kỷ gần đây đã chứng kiến ​​một số nghiên cứu thực nghiệm về ý tưởng rằng môi trường tự nhiên có thể phục hồi và trẻ hóa chúng ta, tăng cường sự tập trung và giữ cho chúng ta khỏe mạnh hơn.

Xem xét nhé, nếu đúng, ý tưởng này có ngụ ý quan trọng cho cuộc sống hằng ngày và nơi làm việc, điều quan trọng là phải kiểm tra xem việc dành nhiều thời gian hơn cho thiên nhiên có thực sự giúp chúng ta giải quyết một số vấn đề cấp bách nhất trong đô thị hiện nay hay không.

Để đạt được điều này, điều quan trọng là phải hiểu Lý thuyết phục hồi sự tập trung của Kaplan.

Thuyết phục hồi sự tập trung là gì?

Mấu chốt, Thuyết phục hồi sự tập trung (ART), đề xuất rằng việc tiếp xúc với thiên nhiên không chỉ thú vị mà còn có thể giúp chúng ta cải thiện sự tập trung và khả năng tập trung (Ohly, White, Wheeler, Bethel, Ukoumunne, Nikolaou, & Garside, 2016) .

Lý thuyết này được phát triển và phổ biến bởi Stephen và Rachel Kaplan vào cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990, một khoảng thời gian được đặc trưng bởi các tiến bộ công nghệ vượt bậc và các khuynh hướng giải trí trong nhà ngày càng tăng. Khi mọi người – và đặc biệt là trẻ em – ngày càng dành nhiều thời gian ở bên trong nhà, mối quan tâm về việc thiếu thời gian tiếp xúc với tự nhiên ngày càng tăng.

ART đưa ra giả thuyết rằng thiên nhiên có khả năng tái tạo sự tập trung sau khi sử dụng năng lượng trí óc, chẳng hạn như sau khi mất ngủ qua đêm để ôn thi, hoặc làm việc không mệt mỏi trong một dự án hoặc bài tập học búa.

Rachel, Stephen Kaplan và Trải nghiệm về Thiên nhiên

Trong phần giới thiệu của ART về hiểu biết chính thống, Stephen và Rachel Kaplan mô tả lý thuyết và bằng chứng ủng hộ lý thuyết đó. Cuốn sách phác thảo cuộc khám phá trong 20 năm của họ về tầm quan trọng của thiên nhiên và tác động của môi trường tự nhiên đối với tâm trạng, trạng thái tinh thần và sức khỏe.

Các tác giả nhắm đến trả lời một số câu hỏi quan trọng về chủ đề này, bao gồm:

(1) Tác động của thiên nhiên đối với con người có mạnh mẽ như trực giác họ cảm nhận không?
(2) Điều gì làm cho các thiết lập mang tính tự nhiên trở nên hấp dẫn?
(3) Làm thế nào để thiết kế, quản lý và diễn giải môi trường tự nhiên nhằm tăng cường ảnh hưởng có lợi của chúng?

Nếu bạn đọc xong tác phẩm này và thấy mình vẫn khao khát biết thêm thông tin về ART, thì hãy tìm đọc cuốn sách Experience of Nature ( Stephen Kaplan, Rachel Kaplan)

Phục hồi tâm lý môi trường

Phục hồi là một chủ đề phổ biến trong tâm lý học môi trường, một lĩnh vực tâm lý học kết hợp với các bộ môn thiết kế môi trường để khám phá các mối liên hệ năng động giữa con người và môi trường xung quanh họ. Một tương tác quan trọng giữa cá nhân và môi trường là phục hồi sự tập trung, năng lượng của chúng ta và bản thân chúng ta bằng cách trải nghiệm hoặc ngắm nhìn thiên nhiên (Clay, 2001).

Mối quan tâm đến chủ đề này chỉ ngày càng tăng khi: chúng ta dành nhiều thời gian hơn trong nhà và ít thời gian ra ngoài môi trường tự nhiên hơn; sự đô thị hoá quá mức như một quái vật khổng lồ nuốt chửng các vùng tự nhiên còn sót lại trong thành phố; nhịp sống ngày càng nhanh hơn và bận rộn hơn, chúng tôi các nhà thiết kế, quy hoạch đô thị và môi trường, tâm lý học môi trường đang tìm cách để có thể kết hợp phục hồi nhiều hơn vào cuộc sống của mình. Để đạt được mục tiêu đó, các chuyên gia đã nghiên cứu và đưa ra một số hướng dẫn và thông tin để giúp chúng ta hiểu cách tận dụng cơ hội mà thiên nhiên mang lại để phục hồi.

Bốn trạng thái của sự chú ý

Stephen và Rachel Kaplan (1989) đề xuất bốn trạng thái nhận thức, hay trạng thái chú ý, cùng với sự phục hồi:

(1) Đầu óc thảnh thơi, hoặc sự tập trung
(2) Phục hồi sự mệt mỏi tinh thần
(3) Sự đê mê nhẹ nhàng hoặc thích thú
(4) Sự an yên và phục hồi

Giai đoạn đầu tiên (1) được đặc trưng bởi sự tỉnh táo của tâm trí. Trong giai đoạn này, những suy nghĩ, mối quan tâm, lo lắng và những mẩu thông tin còn sót lại từ bất cứ thứ gì đòi hỏi sự chú ý của một người đều cần phải lướt qua tâm trí và biến mất. Điều này không đạt được bằng cách tạo sức ép “đẩy” những suy nghĩ này ra xa, mà chỉ đơn giản là để chúng trôi qua và ra khỏi tâm trí một cách tự nhiên.

Trong giai đoạn thứ hai, (2) việc khôi phục thực sự bắt đầu; sau một nhiệm vụ hoặc hoạt động đòi hỏi sự chú ý tập trung và có định hướng, chúng ta rất dễ cảm thấy kiệt sức và cạn kiệt. Giai đoạn phục hồi mệt mỏi về tinh thần cho phép sự chú ý được định hướng đó hồi phục và được phục hồi về mức bình thường.

Giai đoạn thứ ba (3) cho phép con người nhẹ nhàng phân tâm và tham gia vào một hoạt động kích thích thấp, giúp giảm tiếng ồn bên trong và cung cấp một không gian bên trong yên tĩnh để thư giãn.

Trong giai đoạn cuối cùng (4), được gợi lên bằng cách dành một thời gian dài trong một môi trường đáp ứng tất cả bốn yêu cầu của môi trường phục hồi (sẽ nói thêm về điều đó sau này), cá nhân có thể thư giãn, phục hồi sự chú ý và suy ngẫm về cuộc sống của họ. , ưu tiên, hành động và mục tiêu (Han, 2003).

Giai đoạn cuối cùng là giai đoạn phục hồi sâu nhất và nhiều nhất; đây là nơi diễn ra quá trình phục hồi có tác động mạnh nhất.

Advertisement

Xây dựng môi trường bền vững dựa trên nguyên tác sinh thái cảnh quan: Hướng tiếp cận cho vùng đô thị.

14 Sunday Aug 2016

Posted by claredelune in Urban

≈ Leave a comment

Tóm tắt: Dưới tác động của sự phát triển đô thị hiện đại, môi trường sống của con người đang trở nên xấu đi và tính bền vững vốn có của tự nhiên cũng dần dần bị phá vỡ. Các học giả vẫn đang tìm kiếm các giải pháp ở các khía cạnh khác nhau nhằm cải thiện, giảm thiểu những tác động xấu vào môi trường. Sinh thái cảnh quan đóng một vai trò rất lớn trong việc xây dựng một môi trường bền vững. Do đó, việc quy hoạch và phát triển đô thị bền vững cần dựa trên những nguyên tắc của sinh thái học cảnh quan. Bài viết này giúp tìm hiểu những nguyên tắc sinh thái cảnh quan ở tỉ lệ vùng và làm thế nào để xây dựng một môi trường vùng đô thị bền vững.

Từ khóa : môi trường bền vững, cảnh quan sinh thái, cảnh quan vùng đô thị, khảm đất.

Abstract: Under the effect of modern urban development, living environment of human beings is becoming worse and the nature’s inherent sustainability is also broken gradually. Scholars are still seeking solutions in various sectors to improve and reduce disadvantage impacts into the environment. Ecology landscape takes a great role in constructing a sustainable environment. Therefore, sustainable urban planning and developing needs to be based on the ecological landscape principles. The article helps to disclose these principles in the large scale and how to build a sustainable environment in urban area.

Keyword: sustainable environment, ecological landscape, landscape urban region, land mosaic.

  1. Mở đầu:

Đô thị hóa làm thay đổi bộ mặt đô thị, mang đến nhiều lợi ích cho sự phát triển trên nhiều phương diện khác nhau, tuy nhiên, ảnh hướng của nó đối với sinh thái vùng và đô thị gây ra những tác động tiêu cực đến môi trường sống của con người và sinh vật. Sự phát triển đô thị cần phải xem xét kĩ lưỡng nhằm phù hợp với các nguyên tắc sinh thái môi trường cảnh quan ở các tỉ lệ khác nhau. Trong khi đó những kiến trúc sư cảnh quan, những nhà quy hoạch thường phải vật lộn với việc chuyển dịch các quy tắc sinh thái thành một tỉ lệ thực tiễn cho con người, hầu hết những nghiên cứu sinh thái hướng đến những tỉ lệ cảnh quan lớn hơn(Forster Ndubisi 1997). Việc chuyển dịch những quy tắc sinh thái cảnh quan để hướng đến những vấn đề trong cảnh quan ở tỉ lệ nhỏ hơn là một vấn đề mà các nhà sinh thái, quy hoạch đô thị, cảnh quan đô thị đang cố gắng thực hiện. Sinh thái học cảnh quan đã hướng đến những vẫn đề này. (Forman and Godron 1986) đã có một sự hợp nhất giữa những nhà sinh thái học, địa lý học, kiến trúc sư cảnh quan, quy hoạch đô thị, và lịch sử đô thị. Do đó, những cấu trúc, chức năng, sự thay đổi của cảnh quan đã được khám phá dần dần. Cảnh quan sinh thái đưa ra khuôn khổ khái niệm cho những nhà thiết kế và quy hoạch có thể khám phá làm thế nào cấu trúc của đất phát triển cùng với những tiến trình sinh thái là thích hợp. Nếu cảnh quan là lằn ranh giao tiếp giữa những quá trình tự nhiên và con người thì hàm ý của cảnh quan sinh thái tập trung vào phương diện đối thoại của cả hai quá trình đó. Thêm vào đó, cảnh quan sinh thái cũng đề cập đến cảnh quan như một khảm tương tác giữa các hệ sinh thái, được kết nối bởi những dòng năng lượng, vật chất và dần dần hệ sinh thái phát triển trở nên đồng nhất giữa văn hóa và thị giác. Từ khi hệ sinh thái ở các tỉ lệ khác nhau được nghiên cứu, những dòng năng lượng và vật chất giữa các hệ sinh thái khác nhau về quy mô có thể được định dạng dẫn đến cảnh quan sinh thái cung cấp các khái niệm quan trọng cơ bản cho việc nghiên cứu cảnh quan ở một tỉ lệ thích hợp cho cuộc sống con người(Forster Ndubisi 1997).

Khung thời gian và yếu tố con người – môi trường là hai cấu kiện chính yếu của tính bền vững. Một khung thời gian thông thường cho quy hoạch, thiết kế, bảo tồn, quản lý và chính sách được tính bằng con số năm hoặc có khi lên đến vài thập kỉ. Trong khi đó khuôn khổ thời gian của tính bền vững được tính bằng một khung thời gian khác, để quy hoạch xuyên qua những thế hệ con người, phần lớn lịch sử đã để lại là những tương giữa tác đất-con người được tính bằng hai cho đến nhiều thế kỉ. Hầu hết các nghiên cứu về tính bền vững tập trung cho quy mô toàn cầu(Clark 2007); (Malone and Repetto 1987). Chỉ một vài quốc gia đã bắt đầu nghiêm túc hướng đến những gợi ý cho tính bền vững(Lubchenco, Olson et al. 1991); (Risser, Lubchenco et al. 1991). (Forman 1995) đã hướng đến xây dựng một môi trường cư trú, ý tưởng về phát triển đô thị bền vững là không được đề cập cụ thể, tuy nhiên, môi trường nông nghiệp, kinh tế, rừng, ngư nghiệp, xã hội và những vấn đề sinh thái học đã có một tiếp cận đặc biệt trong tính bền vững. Điều đáng ngạc nhiên là vai trò sắp xếp không gian trên đất lại thường bị bỏ qua. Rất ít những tài liệu nói về tính bền vững ở tỉ lệ cảnh quan và vùng đô thị(Forman 1990). Trong khi đó, những tỉ lệ này lại là quan trọng nhất cho việc đạt được tính bền vững. Quan điểm của Forman về xây dựng một môi trường bền vững với những tiếp cận cụ thể  để luận giải những vấn đề mà các nhà quy hoạch, thiết kế, bảo tồn, quản lý đất và người làm chính sách(Forman and Godron 1986). Bài viết này giới thiệu và ứng dụng những quy tắc tổng thể cùa sinh thái học cảnh quan ở tỉ lệ vùng nhằm gợi lên một suy nghĩ về làm thể nào để xây dựng một môi trường bền vững ở tỉ lệ vùng đô thị.

  1. Những quy tắc tổng thể của cảnh quan và sinh thái vùng

1/ Cảnh quan và vùng:  Một sự pha trộn của hệ sinh thái địa phương hoặc những loại đất sử dụng là được lặp đi lặp lại trên đất hình thành nên cảnh quan, đó là yếu tố cơ bản trong một vùng với tỉ lệ rộng bao gồm một kiểu mẫu mang tính không lặp lại, tính tương phản mạnh[1], và tính hạt thô[2] của cảnh quan.
2/ Mảng- Hành Lang- Ma Trận: Sự sắp xếp hoặc kiểu mẫu cấu trúc của những mảng[3], hành lang[4], và ma trận[5], những thực thể này cấu thành cảnh quan, là một yếu tố chính quyết định những lưu dòng chức năng và sự chuyển động trong cảnh quan, và cũng là yếu tốt làm thay đổi trong chính kiểu mẫu và quá trình của nó xuyên suốt qua thời gian.

3/ Mảng thực vật tự nhiên lớn: Chỉ có trong những cấu trúc của cảnh quan, nó bảo vệ những tầng ngậm nước và hệ thống dòng chảy được liên kết với nhau, duy trì được quần thể sống của hầu hết các loài bên trong nó, cung cấp môi trường sống cốt lõi và thoát khỏi vỏ bọc cho hầu hết những loài động vật có xương sống trong phạm vi đại gia đình, và cho phép một chính thể xáo trộn gần như tự nhiên.

4/ Hình dạng của mảng: để đạt được vài chức năng mấu chốt, một hình dạng mảng tối ưu về phương diện sinh thái thường có lõi lớn với những đường biên là những đường cong tuyến tính và những nhánh rẽ hẹp (narrow lobes), và hình dạng của chúng dựa vào vào các góc định hướng liên quan đến những lưu dòng lân cận.

5/ Sự tương tác giữa các hệ thống sinh thái: Tất cả các hệ thống sinh thái trong cảnh quan là có quan hệ với nhau, tỉ lệ dịch chuyển và lưu dòng tụt giảm mạnh mẽ với những đối tượng khác hệ sinh thái, nhưng tụt giảm dần dần đối với sự tương tác của những loài giữa các hệ sinh thái cùng loại.

6/ Sự bùng nổ cư trú: Đối với những quần thể trên những mảng riêng rẽ, tỉ lệ tuyệt chủng nội bộ giảm cùng với chất lượng nơi cư trú tốt hơn hoặc kích cở mảng lớn hơn, và tái thuộc địa hóa tăng lên với những hành lang, những bước đệm, ma trận thích hợp với môi trường cư ngụ, hoặc khoảng cách ngắn giữa các mảng bên trong nó.

3 copy

Tương tác của hình dạng mảng trong sự tương tác sinh thái qua các narrow lobes (tạm dịch là các nhánh hẹp); các dạng thức hành lang bám theo các dòng chảy.(Nguồn : (Forman 1995))

7/ Khả năng chống chịu của cảnh quan: Sự sắp xếp của những những yếu tố không gian, đặc biệt là những vành đai chắn, đường dẫn, và những khu vực không đồng nhất cao, định đoạt khả năng chống chịu đối với lưu dòng và sự chuyển dịch của loài, năng lượng, vật chất, và sự xáo trộn trên cảnh quan.

8/ Kích thước hạt (Grain size): Một cảnh quan với loại hạt-thô hàm chứa những khu vực hạt-mịn là tối ưu để cung cấp lợi ích sinh thái cho mảng lớn, những chủng loại đa môi trường cư trú  bao gồm con người, và một dải rộng các nguồn tài nguyên, là điều kiện tốt cho môi trường.

9/ Thay đổi cảnh quan: Đất được biến đổi bởi những quá trình phân định không gian trên nó, chồng lấn trong một trật tự, bao gồm cả sự xuyên qua, phân mảnh và sự mài mòn. Khi những quá trình này tăng lên đồng nghĩa với môi trường cư trú bị đánh mất và cô lập, nhưng về mặt khác, chúng là nguyên nhân của những ảnh hướng rất khác lên kiểu mẫu không gian và tiến trình sinh thái.

10/ Chuỗi của khảm cảnh quan: Đất được chuyển biến từ nhiều thích hợp sang ít thích hợp với môi trường cư trú trong số lượng nhỏ của những chuỗi khảm[6] cơ bản, tốt hơn hết về phương diện sinh thái chúng là những dải song song phát triển từ một cạnh, xuyên suốt qua những sự cải biến về kiểu mẫu dẫn đến một chuỗi “Tối ưu về mặt sinh thái”

11/ Gộp-với-những giá trị nổi trội[7]: Trên phương diện sinh thái đất hàm chứa con người đã được sắp xếp tốt nhất bằng tập hợp những cách sử dụng đất, vẫn chưa tồn tại những mảng nhỏ và những hành lang tự nhiên trên khắp những khu vực đã được phát triển, cũng như những giá trị nổi trội của hoạt động con người được sắp xếp một cách không gian dọc theo những đường biên chính.

2copy

Sự sắp xếp của sử dụng đất dựa trên quy tắc gộp của các giá trị nổi trội. trong đó N: thảm thực vật tự nhiên, A đất nông nghiệp, B khu vực xây dựng. Những giá trị nổi trội của chúng được biểu hiện bằng những chấm đen nhỏ trong (a), nhừng hình tròn trong (b), và những tam giác trong (c). (d) thể hiện sự hợp nhất kiểu mẫu của (a),(b),(c) (Nguồn: (Forman 1995))

12/ Những kiểu mẫu bắt buộc: Những kiểu mẫu ưu tiên hàng đầu cho sự bảo vệ, là những mảng thực vật tự nhiên lớn, những hành lang thực vật rộng bảo vệ cho những nguồn nước, tính kết nối cho những dòng dịch chuyển của những giống loài quan trọng giữa những mảng lớn với nhau, và những mảng nhỏ, những hàng lang cung cấp những mẫu thực thể hỗn tạp của tự nhiên ở khắp nơi trong những khu vực đã phát triển. Đó là những kiểu mẫu không gì có thể thay thế cho những lợi ích sinh thái.

  1. Thiết kế một vùng dân cư

Giả định rằng bạn là một nhà quy hoạch mang trọng trách phải thiết kế một cộng đồng bền vững mới trong một vùng dân cư thưa thớt và bạn có thể lờ đi những băn khoăn về vấn đề chính sách. Do đó, bạn sẽ khám phá khu vực và cân nhắc cái nào nên là quy tắc chỉ dẫn đầu tiên. Tìm kiếm một nơi để đặt vị trí một hình mẫu không gian tối ưu được biết trước cho việc sử dụng đất? Hay là sử dụng những ngôi nhà và cơ sở sử dụng đất đang tồn tại xung quanh để tổ chức cộng đồng ? Hoặc quy hoạch nó dựa trên sự sắp xếp của tự nhiên và những nguồn tài nguyên thiên nhiên?

Hình mẫu không gian tồn tại trước đó có lẽ đã khớp một cách đẹp đẽ trên đất, nhưng thông thường sự sắp xếp đặc biệt của những nguồn tài nguyên thiên nhiên thì lại không khớp với những hình mẫu lý tưởng. Điều này sẽ dẫn đến những điều không hiệu quả và xung khắc không gian. Một cách tương tự thì những ngôi nhà và cách sử dụng đất thưa thớt có lẽ là hài hòa với tự nhiên. Nhưng thường thì, đặc biệt là trong một khu dân cư tăng cường hoặc mở rộng, chúng đang thoái hóa đất bằng những cách của riêng nó.

Trong một thiết kế, đầu tiên tự nhiên cần phải được am hiểu và phải khớp với những nguồn tài nguyên thiên nhiên thì hầu như thể hiện được bền vững. Một thiết kế như thế cần phải quyết đoán. Điều này có lẽ phát sinh những bất ngờ khó chịu ở những nơi mà những khu dân cư đã tự định nghĩa những nhận thức, giá trị và những nguyện vọng về kinh tế. Tuy nhiên, do dựa trên sự sắp xếp nội bộ đặc trưng của tự nhiên, thiết kế của bạn sẽ là riêng biệt. Diện mạo sẽ không giống với những cộng đồng khác. Dĩ nhiên, những hình mẫu không gian tối ưu và những công trình đang tồn tại sẽ là những nhân tố thứ cấp tác động đến thiết kế dựa vào nguồn tài nguyên thiên nhiên.

1 copy

Chuỗi tiến trình cho quy hoạch, và những thuộc tính quan trọng để đạt được tính bền vững.

  • Những vấn đề lộn xộn bên trái, và một chuổi tổng hợp tiến trình cho việc khởi đầu phát triển bên phải.
  • Một tóm tắt của những thuộc tính mấu chốt đã được xác định. Những thuộc tính này có lẽ được xem xét như những giả thuyết và phạm vi nghiên cứu trong tương lai.

Quy hoạch nên chi tiết như thế nào? Có lẽ, những quyết định mấu chốt cho tính bền vững là những kế hoạch, sắp xếp tổng quát dựa trên những khu vực chính, và những cơ cấu cho tính thích nghi và mềm dẻo. Rõ ràng là người thiết kế phải quan tâm đến những vị trí của những con đường cụ thể, những tuyến hạ tầng, ranh giới, trường học, công viên, vv. Đó là những thứ quan trọng trong một kế hoạch ngắn hạn, và có thể được thay đổi dễ dàng nếu cần thiết. Quan trọng hơn là cho suốt những thế hệ con người, xác định những vùng chính yếu cho bảo vệ nguồn nước, công trình, đa dạng sinh thái, chăn nuôi vv. Một khi những khu vực lựa chọn chính này được ăn khớp thì nó sẽ là bán kiên cố. Tính bền vững rõ ràng là dựa trên kích cỡ, hình thù, và sự liền kề của những khu vực chính yếu này, tức là, dựa trên chất lượng của khảm đất.

Trong vòng những khu vực chính, tính thích ứng là nguyên tắc chủ chốt. Chúng ta có thể dự đoán với sự chắc chắn trong tay rằng những thay đổi và nhiễu loạn không lường trước của cả hai nguyên căn đó là từ thiên nhiên và con người sẽ xuất hiện. Những đối tượng mà được khớp một cách bán vĩnh cữu với nơi chốn của nó là khó mà gìn giữ, nghĩa là, trong sự đối mặt với lũ lụt, động đất, chiến tranh và những thay đổi trong mực nước ngầm. Một thiết kế tốt cần phải am hiểu sâu sắc những khoa học liên quan đến những tiến trình tự nhiên để xác định một cách hiệu quả những khu vực dùng chung. Tuy nhiên, ở một tỉ lệ chi tiết hơn, chúng có thể được thiết kế với những cấu trúc và sử dụng đất để dễ dàng điều chỉnh, sửa chữa, di dời và gỡ bỏ. Đó là những yếu tố mà một thiết kế tốt cần phải có.

Trong sự chọn lựa những khu vực chính, câu hỏi đầu tiên thường được đưa ra là những ngôi nhà và công trình được đặt nơi đâu. Đối với tính bền vững thì đó là một sai lần nghiêm trọng(Forman 1995). Thay vào đó, những khu vực đầu tiên được đặt ra là những thứ cho nguồn nước, đa dạng sinh thái. Ưu tiên thứ hai là cho những khu vực trồng trọt, đồng cỏ cho chăn thả, rừng lấy gỗ. Tiếp theo là, những khu vực cống thoát nước và những chất thải rắn là được lựa chọn. Và cuối cùng là những khu vực dành cho nhà ở và khu công nghiệp.

Chuỗi rút gọn này có nghĩa rằng để cho sự bền vững là tốt nhất trong tổng thể khu vực, những yếu tố như vừa nói trên cần xác lập trước hết rồi mới đến những công trình. Một người thiết kế mà xác lập vị trí cho những công trình trước những khu vực xử dụng đất quan trọng hơn, họ làm giảm giá trị sữ dụng đất của nó. Nếu chỉ nghĩ về những kế hoạch ngắn hạn, hoặc là đánh cược vào những giá trị đầu ra và đầu vào để duy trì cộng đồng đó thì sẽ không thể dẫn đến một môi trường bền vững.

Trên phạm vi rộng, sự xem xét cụ thể hơn trong quản lý những vành đai xanh, những sự bảo vệ chống lại việc lạm dụng của con người nhắm vào những khu vực tài nguyên thiên nhiên khác nhau bằng cách cải thiện thiết kế cạnh và đường biên da dạng. Đối với nguồn nước có lẽ yêu cầu bảo vệ tất cả những lưu vực cấp thoát nước. Những luồng gió mạnh ở những mùa khác nhau là nguyên nhân gây nên những thay đổi về đất và có lẽ cũng là nguồn gốc của xói mòn. Những tác động lân cận giữa những vùng sử dụng đất khác nhau như là đất trồng trọt, công nghiệp, và bảo tồn thiên nhiên, đó là những thách thức cũng như cơ hội trong thiết kế cho những thế hệ con người trong tương lai. Thiết kế về mặt sinh thái là khởi tạo những kiểu mẫu biến đổi dựa trên khung của những liên kết gần và xa, tác động đến các loài.

3.1. Tóm tắt những thuộc tính mấu chốt cho quy hoạch bền vững

Khái niệm của một môi trường sinh thái tập trung vào một khung thời gian được tính bằng thế hệ con người và sự duy trì đồng thời tính toàn vẹn sinh thái và những nhu cầu cơ bản của con người. Những thuộc tính sau đây là hứa hẹn nhất cho việc đạt được tính bền vững:

  • Cảnh quan và vùng là những tỉ lệ không gian tối ưu cho quy hoạch và thực hiện. Hình mẫu mảng-hành lang- ma trận là hữu ích trong việc giải quyết tính không đồng đều của một khảm đất hoặc cảnh quan. Sự thay đổi trong kích cỡ hạt mang đến nhiều lợi ích, bao gồm cả tính mềm dẻo của nó.
  • Văn hóa là một lực cố kết chủ chốt ở tất cả những tỉ lệ. Tín ngưỡng và những động lực kinh tế xã hội có thể cũng được xem là quan trọng trong sự cải thiện hiệu quả hợp tác. Một hệ thống mở với những sự liên hợp trong những khu vực khác đưa ra những ý tưởng, trao đổi/ buôn bán, sự di cư quan trọng vv. Để ổn định, chỉ số đầu vào và đầu ra nên tương đối nhỏ so với những số lượng trong hệ thống. Việc tự cung ứng là hữu ích trong một môi trường xây dựng, như là, hệ thống thực phẩm địa phương, những không gian riêng tư, và hiệu quả trong sử dụng năng lượng, tái tạo và giao thông.
  • Phép thử về tính bền vững là tốt nhất nếu mục tiêu có tính liên quan. Những thuộc tính có khuynh hướng chung là thay đổi chậm rãi, là một sự tập trung chủ yếu, hơn là những dao động bất thường.
  • Tính thích nghi là quan trọng trong quy hoạch xuyên suốt qua những thế hệ con người. Cơ chế thích nghi có khả năng phản hổi thường xuyên với sự phát triển, tuy nhiên đối với sự hỗn loạn và thay đổi không thế dự đoán trước thì có lẽ là ít phát huy tác dụng hơn. Sự ổn định của khảm, nơi mà những tương tác giữa những yếu tốt bên cạnh và lân cận khó có thể ảnh hưởng, đó là điều quan trọng nhất trong mọi tỉ lệ cảnh quan.
  • Để duy trì tính toàn vẹn sinh thái, yêu cầu tập trung vào những phạm trù của hiệu suất, đa dạng sinh thái, đất và nước. Trong khi đó, nhu cầu cơ bản của con người đòi hỏi tập trung vào thực phẩm, nước, sức khỏe, và nhà ở, cũng như năng lượng và sự cố kết văn hóa.

Những bài học trong lịch sử đã chỉ ra rằng, những vấn đề về nước, xói mòn, mật độ dân số tăng cao, chiến tranh, và sự tụt dốc trong xuất khẩu là những thuộc tính chìa khóa có liên quan đến sự giảm sút tính bền vững. Những yếu tố khác bao gồm cơ sở tài nguyên tổng thể, phá rừng, chăn thả quá mức, sự hiện diện của chính quyền địa phương hà khắc hay một thành phố lân cận lớn, và sự sụp đổ của hệ thống thủy lợi chính chính yếu.

Cũng khá giống nhau, những thuộc tính quan trọng có liên quan đến tính bền vững lớn hơn như là sự cố kết thiên nhiên, sự phát triển dân số thấp, và thương mại xuất nhập khẩu. Những cái khác ở cấp độ tổng thể bao gồm sự sắp xếp của tài nguyên căn bản, sự cố kết tín ngưỡng, những khớp nối khác nhau với những vùng lân cận liền kề, và một hệ thống thủy lợi chính hoặc hệ thống mương, kênh.

Những thuộc tính trên nêu ra những định hướng tổng quát cho việc xây dựng một môi trường bền vững. Mặc dù rất nhiều những thứ có liên quan, chúng đại diện cho một sự chắt lọc từ rất nhiều trong các bộ thuộc tính, sự tổng hợp và những lựa chọn. Và điều quan trọng không kém đó chính là sự khớp hoàn toàn với nhau trong nội bộ giữa các thuộc tính này.

3.2. Quy hoạch cho mục tiêu đồng thời

Hầu như phát triển các bản quy hoạch là được định hướng bởi đơn thể đối tượng chính yếu nào đó. Do đó, những bản đồ, những mô tả, tùy chọn và những biện lý được đưa ra một cách riêng nhằm hướng đến duy nhất một đối tượng nào đó, như là quy hoạch cho những căn nhà, con đường hoặc là khu bảo tồn thiên nhiên, hay là bảo vệ một vùng đa dạng sinh thái, đất, cảnh quan hay một công viên đô thị nào đó. Những bản vẽ như thế thường được tạo ra bởi những chuyên gia trong một lĩnh vực riêng biệt, nó giúp dễ dàng cho sự phát triển và hiện thực hóa, nhưng, thường là vô nghĩa và phản tác dụng trong bối cảnh của phát triển bền vững. Lý do khá dễ hiểu. Về mặt chính trị, kinh tế, hoặc là môi trường, những bản vẽ đó là không đúng. Bởi vì khi tập trung vào một đối tượng đơn thể chúng có khuynh hướng sẽ cực đại hóa các thuộc tính liên quan đến nó, trong khi đó những đối tượng khác thường được xem xét là thứ yếu.

Một môi trường bền vững, đúng là có một vài thuộc tính nhạy cảm quan trọng, những thứ liên quan đến sự sụt giảm và gia tăng tính bền vững. Do đó, quy hoạch, bảo tồn và quản lý cần tập trung vào một số các biến số đồng thời hơn là đơn lẻ. Điều này làm nên sự tối ưu hơn là sự cực đại hóa.

Đánh giá khách quan giữa những biến số liên quan sẽ là tối ưu. Nhưng trong những giới hạn thực tiễn, người làm quyết định thiết lập những ưu tiên, và tập trung vào những biến số được đánh giá là quan trọng nhất.

3.3. Kết hợp chặt chẽ tính bền vững vào quy hoạch và quản lý

Những vấn đề lớn tồn tại trong việc tạo lập tính bền vững như là sự gia tăng dân số, sự mở rộng của những thành phố lớn, liên kết hiệu quả mức độ cảnh quan toàn cầu, và sự phát triển những hình mẫu kinh tế, mặc dù những yếu tố này đưa ra một giá trị đầy đủ cho những nguồn tài nguyên và những quá trình thiên nhiên nhưng lại ít được chú ý quan tâm (MCNEIL 1977, ). Sự tăng dân số là yếu tố mà hầu như làm cho tính bền vững bị phá vỡ.
Tuy nhiên, nếu giả thuyết rằng với bất kỳ một cảnh quan nào, hay một phần chính nào của cảnh quan, nó tồn tại một sự sắp xếp không gian tối ưu trong một hệ sinh thái và sử dụng đất nhằm cực đại hóa tính toàn vẹn của sinh thái. Điều đó là đúng cho việc đáp ứng những nhu cầu cơ bản của con người và để tạo nên một môi trường bền vững. Nếu vậy, cái chính nhưng cũng là sự thách thức dễ thực hiện đó là khám phá ra quy luật sắp xếp không gian.

Chuỗi các quy tắc quan trọng được liệt kê ở trên giúp đơn giản hóa công việc của những người quy hoạch, bảo tồn, quản lý và những người có liên quan với vấn đề sử dụng đất. Những kiểm kê của tất cả những chủng loài hiện tại, chu trình dinh dưỡng khoáng, tỉ lệ xói mòn đất, và những sự biến đổi trong chất lượng nước ở cảnh quan hoặc vùng là hữu ích và nên được phát triển.

Thay vào đó, những giải pháp không gian đang tồn tại, những sắp xếp không gian của những hệ thống sinh thái và sử dụng đất, nó có ý nghĩa một cách sinh thái trong bất kỳ một cảnh quan hoặc tỉ lệ vùng . Những giải pháp không gian ở một nơi mà cho phép chúng ta quả quyết rằng, đa dạng sinh thái, đất, và nước sẽ được bảo tồn một cách bền vững cho những thế hệ con cháu sau này. Mỗi loài, mọi hạt đất, và mọi điểm trên mặt nước sẽ không được bảo vệ hoặc duy trì, nhưng, những kiểu mẫu không gian sẽ bảo tồn phần lớn những thuộc tính đó, cũng như những điều, những thuộc tính quan trọng nhất. Tính toàn vẹn của sinh thái sẽ được giữ gìn qua thời gian và nó có thể được thực hiện trong cảnh quan- điều mà chưa từng được trông thấy.

Tham khảo:

Clark, H. (2007). Sustainable Development, Parliament.

Forman, R. T. (1990). Ecologically sustainable landscapes: the role of spatial configuration. Changing landscapes: an ecological perspective, Springer: 261-278.

Forman, R. T. (1995). Land mosaics: the ecology of landscapes and regions, Cambridge university press.

Forman, R. T. and M. Godron (1986). “Landscape ecology. 619 pp.” Jhon Wiley & Sons, New York.

Forster Ndubisi (1997). Landscape Ecological Planning. Ecological Design and Planning. F. R. S. George F. Thompson. US, Wiley: 9-39.

Lubchenco, J., et al. (1991). “The Sustainable Biosphere Initiative: an ecological research agenda: a report from the Ecological Society of America.” Ecology 72(2): 371-412.

Malone, T. F. and R. Repetto (1987). The Global Possible: Resources, Development, and the New Century. A World Resources Institute Book, JSTOR.

MCNEIL, W. (1977, ). Plagues and peoples Basil Blackwell: Oxford.

Risser, P. G., et al. (1991). “Biological research priorities: a sustainable biosphere.” BioScience 41(9): 625-627.

Chú thích:

[1] Tính tương phản: ám chỉ đến khả năng phân biệt những đối tượng đối tượng hoặc những nhân tố không gian trong nó. Tính tương phản dựa trên số lượng của sự khác nhau giữa những yếu tố liền kề. nó liên quan đến sự đột ngột của vùng biên.

[2]  Tính hạt : ám chỉ đến độ thô trong mặt kết cấu/ cấu tạo hoặc là có tính chất hạt của những yếu tốt không gian tổ hợp nên một khu vực. Thông số này  được xác định bởi kích cỡ của những mảng có khả phân biệt và nhận ra được.

[3] Mảng: là một khu vực rộng tương đối đồng nhất, nó không giống với những lân cận của nó. Điều này có nghĩa là những mẫu đồng nhất nhỏ hơn trong chính mảng đó lặp đi lặp lại những kiểu mẫu giống nhau trong cùng một mảng.

[4] Hành lang: là một dải những loại đặc biệt, nó phân biệt với vùng đất giáp rang ở cả hai cạnh. Hành lang có những chức năng quan trọng, gồm có những dải dẫn nước như mương, kênh, sông, suối, những dải che chắn và cả những môi trường sống.

[5] Ma trân: là hệ sinh thái nền hoặc những loại đất dùng trong một khảm, biểu thị đặc điểm bởi độ che phủ tăng cường, , tính kết nối cao.

[6] Khảm: là kiểu mẫu của những mảng, hành lang, và ma trận. Mỗi khảm bao gồm những đối tượng được kết tụ giống nhau

[7]Aggregation-with-outliers (Gộp-với- những giá trị nổi trội) Sinh thái vùng và cảnh quan đưa ra một lý thuyết và bằng chứng kinh nghiệm để hiểu và so sánh những cấu trúc không gian khác nhau. Thuộc tính này trả lời cho câu hỏi về sự sắp xếp tối ưu của sử dụng đất trong cảnh quan. Những quy tắc này bao gồm vài thuộc tính sinh thái cảnh quan: Những mảng lớn và hệ thực vật tự nhiên, Kích thước hạt, Nguy cơ lan rộng, Biến thể di truyền, thuộc tính vùng biên, những mảng nhỏ và thảm thực thực vật tự nhiên, những hành lang.

TỪ ĐÔ THỊ ĐẾN SINH THÁI HỌC ĐÔ THỊ

21 Thursday Nov 2013

Posted by claredelune in Urban

≈ Leave a comment

TỪ ĐÔ THỊ CHO ĐẾN SINH THÁI HỌC ĐÔ THỊ

Đỗ Duy Thịnh [1]

Tóm tắt :

Đô thị hóa đã tạo một lực tác động mãnh liệt đến những thay đổi môi trường, kinh tế xã hội trải khắp thế giới từ khi cuộc cách mạng công nghiệp giữa năm 1750 đến 1850. Với sự phát triển nhanh chóng của những đô thị mới và sự bành trướng của những đô thị cũ ở các nước phát triển và đang phát triển thì Việt Nam cũng không ngoại lệ. Những đô thị có các trung tâm kinh tế và xã hội đang được  phát triển và mở rộng thì cũng là nơi đang bắt đầu phát sinh nhiều vấn đề về lĩnh vực môi trường và xã hội. Đô thị được tạo ra và duy trì bởi hình thái khắc nghiệt nhất của sự tương tác giữa tự nhiên và con người, tương lai nhân loại sẽ trông cậy vào các đô thị. Đương đầu với thách thức rất lớn vào thời điểm chúng ta hiện nay tính bền vững của đô thị được đặt lên hàng đầu. Trong khuôn khổ bài viết này cập đến những vấn đề liên quan đến sự tác động  của việc phát triển đô thị theo chiều ngang. Tích hợp, đề xuất các quan điểm phát triển đô thị bền vững tiếp cận từ đô thị sinh thái.

1/ Tổng quan về sự phát triển đô thị

Đô thị là nhà của hơn một nữa dân số thế giới. [2]. Đô thị có các trung tâm kinh tế và phát triển xã hội thì cũng kéo theo những vấn đề về lĩnh vực “ môi trường “ điều mà không chỉ hiểu theo nghĩa đơn thuần. Theo dòng phát triển của xã hội hiện nay, dường như tất cả đều đi đến một mục đích là đô thị hóa. Ở đây tôi muốn gợi lại một khái niệm rất quen thuộc. Đô thị hóa là quá trình phát triển tự nhiên của các vùng đô thị giống như kết quả của việc di cư từ nông nông và các vùng ngoại ô vào các thành phố với một lượng người rất lớn. Sự đô thị hóa gắn liền với hiện đại hóa, công nghiệp hóa và hợp lý hóa tiến trình xã hội học. Đô thị hóa không đơn thuần là một hiện tượng mà còn là quá trình làm chuyển đổi nhanh chóng quy mô, lịch sử, nguồn gốc của con người trên quy mô toàn cầu. Phong trào đô thị hóa được dự báo sẽ tiếp tục tăng và tăng cường mạnh hơn trong vài thập kỷ tới. Ở Châu Á việc kết tụ các đô thị lớn ở  Dhaka, Karachi, Mumbai, Delhi, Manila, Seoul và Bắc Kinh là nhà của hơn 20 triệu người. Trong khi đó, Pearl River Delta [3], Shanghai- Tô Châu and Tokyo được dự báo là sẽ chạm đến hoặc có thể vượt ngưỡng 40 triệu người trong vài thập kỉ đến. Ngoài Châu Á ra thì một số đô thị như  Mexico City, São Paulo, New York City, Lagos và Cairo đang nhanh chóng tiếp cận hoặc đã là nhà của hơn 20 triệu người.

Với Việt Nam, các đô thị bắt đầu tham gia vào quá trình phát triển từ những năm 90. Bắt đầu từ khoảng 500 đô thị lớn nhỏ của cả nước cho đến nay là đã là 755 đô thị [4]. Theo dự báo của Bộ Xây dựng thì tỷ lệ đô thị hóa của Việt Nam vào năm 2020 sẽ đạt khoảng 40%, tương đương với số dân cư sinh sống tại đô thị chiếm trên 45 triệu dân. Mục tiêu đề ra cho diện tích bình quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỉ lệ 100m2/người, Việt Nam cần có khoảng 450.000 ha đất đô thị nhưng hiện nay, diện tích đất đô thị chỉ đạt quy mô 105.000 ha. Chính vì lẽ đó việc mở rộng quy mô đô thị để cân bằng với quá trình đô thị hóa là điều cần thiết .

2/ Vấn đề của tiến trình đô thị hóa

Sự đô thị hóa có hai mặt lợi ích và tai họa. Những đô thị đã cơ động trong việc phát triển kinh tế và cả trong việc đổi mới và phát triển văn hóa xã hội. Đô thị hóa góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế,chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, nó thường có hiệu suất tiêu dùng năng lượng và sản phẩm cao hơn những nơi khác, cũng như việc tiếp cận đến các vấn đề về giáo dục, lao động, chăm sóc sức khỏe,  dịch vụ xã hội tốt hơn so với khu vực nông thôn. Là nơi sử dụng lực lượng lao động có chất lượng cao, cơ sở kĩ thuật hạ tầng hiện đại, có sức hút đầu tư mạnh trong và ngoài nước. Các đô thị không chỉ là nơi tạo ra nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động mà còn là nơi tiêu thụ sản phẩm hàng hóa lớn và đa dạng. Ngoài ra, bằng cách tập trung dân số, thì cũng có thể tạo nên sự đô thị hóa, ít nhất về nguyên tắt là vậy, có thể tiết kiệm đất cho những vùng đặt biệt khác hoặc là bảo tồn thiên nhiên.

Mặt dù vậy, những thành phố cũng là những nơi của những vấn đề về môi trường, phát triển kinh tế xã hội không đồng đều, vấn đề chính sách và xã hội không có tính ổn định.Dù rằng đất đô thị hóa trên thực tế chỉ đơn thuần che phủ khoản 3% của đất trên bề mặt trái đất, cái gọi là “ Dấu chân sinh thái” của đô thị lớn không cân đối – thường là 100 lần kích thước thực tế của chúng. Những vùng đô thị được cho là nơi thải ra khoảng 78% khí carbon, 60% lượng nước dùng trong sinh hoạt, và 76% lượng gỗ dùng trong mục đích công nghiệp [5] . Kết quả là, sự đô thị hóa đã ảnh hưởng sâu sắc đến hệ sinh thái, sự phát triển của sinh thái hệ, những ngành phục vụ sinh thái hệ, khí hậu, và chất lượng môi trường trên cùng quy mô từ đô thị địa phương cho đến toàn cầu. Không chỉ thế sự chênh lệch trong phân bố lao động giữa thành thị và nông nông, cơ sở hạ tầng đô thị quá tải vấn đề về môi trường sống của đô thị cũng bị xuống cấp rõ rệt.

Những phản ứng theo kiểu dây chuyền xảy ra kèm theo quá trình mở rộng đô thị mà thực trạng đã phản ánh nhiều tiêu cực đã chuyện thường ngày của xã hội. Mở rộng đô thị trở thành một trào lưu, một sức hấp mãnh liệt cho tất cả các đô thị trên toàn quốc. Một giấc mơ về đô thị đã được kích hoạt rộng rãi. Từ việc tách các đô thị quy mô tỉnh thành quy mô toàn quốc, thị xã lần lượt được nâng cấp lên thành quy mô đô thị cấp tỉnh cho đến nông thôn cũng được đặt trong quá trình đô thị hóa. Điều đó đồng nghĩa với việc đã làm cho diện tích đất dự trữ , đất nông nghiệp, đất sinh thái, đất dùng cho công cộng thu hẹp nhanh chóng. Các đô thị mọc lên như nấm, cấu trúc làng quê Việt Nam bị xóa vĩnh viễn, những làng quê trù phú ngày xưa dường như chỉ còn trong ký ức. Trong khi đó đất trong đô thị vẫn chưa được khai thác triệt để, vẫn tồn tại các khu đô thị ma, các dự án đang bị bỏ dở vì một lý do nào đó.

3/ Phát triển đô thị sinh thái và bền vững

Thử nhìn ra thế giới, việc tập trung nghiên cứu và khai thác triệt để các tiềm năng bên trong đô thị trước khi nghĩ đến việc mở rộng quy mô đô thị. Bắt đầu từ Hongkong với diện tích 1104 km2 và hơn 7 triệu dân ( trong khi đó Hà Nội 3328,9 km2 với dân số gần 6 triệu 7 , Tp Hồ Chí Minh  2.095,06 km² với dân số hơn 7 triệu [6]  ).  địa hình gồm khoảng hơn 230 đảo lớn nhỏ tạo thành. Cuối năm 2007, tổng diện tích đất xây dựng ở Hồng Kông là 259km2, đất xây dựng đô thị chủ yếu tập trung ở phía bắc và phía nam của Victoria Harbour trên cả hai mặt của bờ biển phía bắc của đảo Hồng Kông, bán đảo Cửu Long và gần bờ phía nam của “vùng lãnh thổ mới”. Trong khoảng 100 năm, đất đô thị của Hồng Kông về cơ bản được phát triển từ hai khía cạnh đó là mở rộng và cải tạo dọc theo sườn đồi. Đất ở và đất giao thông chiếm quy mô lớn đất công nghiệp và thương mại chiếm  quy mô nhỏ hơn. Trong năm 2007, diện tích đất ở Hồng Kông là 75 km2, chiếm khoảng 29% diện tích đất xây dựng. Nhà ở tư nhân vẫn không thay đổi chỉ có ở nông thôn tăng lên. Quy mô đất cho giao thông vận tải cũng được tăng lên. Diện tích của sân bay không thay đổi, sự tăng trưởng nhanh chóng của đất đường sắt, một số tuyến đường sắt đã được mở từ năm 2000. Đất dùng cho công cộng và quy mô của không gian mở cũng được tăng lên từ 20 km2 đến 24 km2 (năm 2000), đó là yêu cầu tất yếu đối với sự gia tăng của chất lượng cuộc sống của người dân.

Chính sách sử dụng đất đô thị theo hai cách đó là mở rộng đất đô thị và cải tạo đất nội thị. Việc cải tạo đất nội thị được đẩy mạnh phát triển một cách triệt để đó cũng là lý do tại sao tại khu vực  này số dân tập trung đông nhưng vẫn đảm bảo được yêu cầu về chất lượng đô thị. Đại diện cho một phương pháp phát triển đô thị theo phương đứng .

Image

( Nguồn Baidu )

Sydney

Sydney nằm trên bờ biển phía đông của Úc, là thủ phủ của bang New South Wales, nó không chỉ là thành phố lớn nhất, lâu đời nhất và thịnh vượng nhất của Úc,mà còn là trung tâm sản xuất, thương mại, tài chính, văn hóa và trung tâm du lịch quan trọng nhất của Úc. Sydney có bến cảng tự nhiên lớn nhất – Cảng Jackson, và hơn 70 bến cảng và bãi biển.

Image

( Nguồn: http://www.cityofsydney.nsw.gov.au )

Image

Cùng với các giai đoạn phát triển đô thị Sydney từ năm 1948 đến nay. Sydney đã phải thích ứng với các vấn đề về nhập cư ồ ạt vào đô thị và cách giải quyết đối với vấn đề này là đề xuất việc xây dựng các đô thị vệ tinh. Việc xây dựng một trung tâm đô thị lớn và ba khu vực trung tâm lân cận cách xa trung tâm đô thị. Dưới áp lực về giao thông và nhu cầu đầu tư về cơ sở hạ tầng đô thị, khu thương mại, khu công nghiệp trong vùng lân cận dẫn đến việc xây dựng các khu dân cư gần với các trung tâm việc làm và đề xuất việc tăng mật đô xây dựng đất hỗn hợp. Càng về sau dưới sự phát triển phức tạp của đô thị, suy thoái về môi trường đô thị dạng cũ, việc tối ưu hóa các dạng đô thị bằng cách chú trọng vào việc cải thiện cơ sở hạ tầng và quy hoạch lại khu vực để cải thiện môi trường đô thị đồng thời thay đổi dần dần những ảnh hưởng của đô thị trước đó.

Image

Vị trí của các vùng phủ xanh mới và  sự phát triển về nhà ở

( nguồn :  Department of Planning, Homes and Jobs for Sydney’s Growth, 2013, trang  5.)

Việc mở rộng mạng lưới khu dân cư ra xa khu trung tâm đô thị nhưng vẫn đảm bảo nhu cầu sinh hoạt đi lại của người dân điều này phải kể đến việc quy hoạch các khu vệ tinh và mạng lưới giao thông. Mạng lưới giao thông được xác lập dựa trên cấu trúc quy hoạch của thành phố. Như vậy vấn đề của đô thị hóa có thể được giải quyết bằng cách khai thác triệt để các tiềm năng vốn có của đô thị chứ không phải chỉ bằng cách mở xây dựng đô thị một cách tràn lan nhằm giãn mật độ dân cư . Việc làm này góp phần xây dựng một đô thị hiện đại, bền vững và cũng là yếu tố làm nên một đô thị sinh thái một cách tự nhiên nhất.

Đô thị sinh thái có thể được xem như là một sản phẩm của sự tích hợp giữa sinh thái học và sinh thái đô thị. Một số ý kiến ​​gần đây về lịch sử của đô thị sinh thái có thể được tìm thấy ở nhiều nơi. Tuy nhiên phiên bản đầu tiên của “sinh thái đô thị ’’ được phát triển trong những năm 1920, như một phần môi trường tự nhiên của con người. Lý thuyết chọn lọc tự nhiên như giải thích sự giống nhau hữu cơ để nghiên cứu đời sống xã hội và cấu trúc xã hội trong thành phố. Ý tưởng mấu chốt của phương pháp tiếp cận sinh thái đô thị này là cạnh tranh về đất và các nguồn tài nguyên trong một khu vực đô thị dẫn đến các cấu trúc liên tục của không gian đô thị chuyển sang những khu vực sinh thái (ví dụ, những vùng ) thông qua những chu kỳ gọi là ” cuộc xâm lược liên tiếp” ( một cách hiển nhiên rằng, người nhập cư và người giàu có đi vào, người nghèo và ” người bản địa” di chuyển ra ngoài ).  Do sự khác biệt không gian và xã hội này xảy ra vì vậy các nhóm xã hội khác nhau chiếm khu vực khác nhau (hoặc chỗ thích hợp ). Ý tưởng này được tóm tắt trong lý thuyết vùng tâm. Trong thực tế, người ta có thể tranh luận rằng sự hiểu biết mối quan hệ giữa cấu trúc không gian và xã hội trong thành phố là một thành phần quan trọng trong hệ sinh thái cảnh quan đô thị, đặc biệt là khi phát triển bền vững đô thị được coi là mục tiêu cuối cùng (Hình 3.4).

Image

Hình 3.4  Quan điểm khác nhau trong sinh thái đô thị và việc tiếp cận sinh thái cảnh quan đô thị đối với các thành phố ( nguồn Wu 2008a, b, 2013a, b )

4/  Giả lập một hướng đi cho quá trình phát triển các đô thị Việt Nam

Việt Nam đang đứng trước nhiều vấn đề trong việc chọn hướng đi cho quá trình đô thị hóa. Làm thế nào để vừa có thể phát triển tốt các yếu tố của một đô thị hiện đại mà vẫn đảm bảo được môi trường tự nhiên, môi trường văn hóa, đặt trưng của vùng miền đồng thời thích nghi với sự biến đổi ngày càng mạnh mẽ của điều kiện khí hậu. Điều đáng quan tâm nữa là các đô thị vùng ven biển có điều kiện tự nhiên rất đặt biệt. Khả năng mở rộng đô thị là điều hạn chế và đồng thời cũng là nơi chịu nhiều tác động của ngoại cảnh. Có rất nhiều giả thuyết đưa ra để giải quyết cụ thể từng vấn đề. Đứng trên góc độ quy hoạch sinh thái đô thị thì tạm dừng việc phát triển đô thị theo phương ngang và bắt đầu tập trung đầu tư phát triển đô thị theo phương đứng là điều cần thiết phải làm ở hiện tại. Xây dựng cơ sở hạ tầng và giao thông có thể là đơn hoặc đa trung tâm để giải quyết tốt nhu cầu giao thông trong đô thị hiện đại và giữa các trung tâm lân cận khác. Phát triển và xây dựng các không gian ngầm nhằm tăng diện tích sử dụng đất trên bề mặt giúp cho việc phát triển các không gian xanh, công cộng và cảnh quan đô thị. Đồng thời không gian ngầm còn giúp giải quyết được vấn đề về khí hậu và thời tiết nắng nóng và gió lạnh thường xuyên xảy ra với các đô thị ở duyên hải miền Trung.

Image

5/ Kết luận

Thế giới ngày càng trở thành đô thị, và các hệ sinh thái cảnh quan cần phản ánh điều thực tế này trong ngành khoa học của nó. Thật sự là, điều này đã xảy ra trong những quá khứ nhiều thập kỷ, việc nghiên cứu các khu đô thị hiện nay để phát triển một cách toàn diện và bền vững là việc làm cần thiết. Có thể gọi  sinh thái cảnh quan đô thị là đồng nhất, đó là một phần của hệ sinh thái cảnh quan và cũng liên quan đến sinh thái đô thị (cũng như các đô thị địa lý và xã hội học đô thị) hiện đang tồn tại các nghiên cứu với chủ đề này. Tuy nhiên, chưa hình thành một khuôn khổ liên kết chặt chẽ hoặc có một mục tiêu thống nhất. Trong bài viết, tôi có xem xét đến nền khoa học gốc của sinh thái cảnh quan đô thị, và tham chiếu với một số nghiên cứu của các nhà cảnh quan đô thị học để rút ra một gợi ý giúp cải thiện việc phát triển đô thị một cách phù hợp với điều kiện hiện tại.

Để đáp ứng các thách thức của phát triển bền vững đô thị, thành phố cần phải được nghiên cứu không gian mở rộng, hệ thống thích nghi phức tạp với phương pháp tiếp cận liên ngành kết hợp sinh thái, khoa học kinh tế, xã hội, và thiết kế / quy hoạch. Điều này dường như có vẻ là chủ đề chính của sinh thái cảnh quan đô thị, định hướng tương lai của nó đang trên đà chuyển động hướng về phía trước. Cảnh quan sinh thái cần phải phát triển nhiều hơn để có được đô thị sinh thái và cả hai cần phải tập trung hơn vào phát triển bền vững.

Tham khảo :

[1]  Đỗ Duy Thịnh

[2]  World Urbanisation Prospects, the 2011 Revision, Website of the United Nations Population Division

[3] Đồng bằng Châu Giang, Gồm  Quảng Châu, Thâm Quyến, Chu Hải, Đông Hoản, Trung Sơn, Phật Sơn, Huệ Châu, Giang Môn và Triệu Khánh, cùng Đặc khu hành chính Hồng Kông và Macao

[4] Cục Phát triển đô thị (Bộ Xây dựng) thống kê, tính đến ngày 31-12-2010.

[5] J. Wu (&)School of Life Sciences and Global Institute of Sustainability, Arizona State University, PO Box 874501Tempe AZ 85287, USA  e-mail: Jingle.Wu@asu.edu URL: http://LEML.asu.edu/Jingle/

 [5] J. Wu  C. He  G. Huang D. Yu Center for Human-Environment System Sustainability (CHESS), State Key Laboratory of Earth Surface Processes and Resource Ecology (ESPRE), Beijing Normal University, Beijing 100875, China

[6] B. Fu and K. B. Jones (eds.), Landscape Ecology for Sustainable Environment and Culture, DOI: 10.1007/978-94-007-6530-6_3,Springer Science+Business Media Dordrecht 2013

Ballesteros, Marife M (2000), “Land use planning in Metro Manila and the urban fringe: implications on land and real estate market”, PIDS Discussion Paper Series No 2000–20, Philippine Institute for Development Studies, Manila.

Steiner, Frederick (1991), The Living Landscape: An Ecological Approach to Landscape Planning, McGraw- Hill, New York, 365 pages.

Ahern J. Urban landscape sustainability and resilience: the promise and challenges of integrating ecology with urban planning and design. Landscape Ecol. 2013. doi:10.1007/s10980-012- 9799-z.

Alberti M. Advances in urban ecology: integrating humans and ecological processes in urban ecosystems. New York: Springer; 2008.

Andow DA, Kareiva PM, Levin SA, Okubo A. Spread of invading organisms. Landscape Ecol. 1990;4:177–188.

The urban equation. Nature. 2010;467(7318):899–901.

Luck M, Wu JG. A gradient analysis of urban landscape pattern: a case study from the Phoenix metropolitan region, Arizona, USA. Landscape Ecol. 2002;17(4):327–39.

Recent Posts

  • TÔI TRỞ THÀNH FULBRIGHT’S SCHOLAR NHƯ THẾ NÀO ?
  • Tìm hiểu về sự xói mòn ven bờ và các giải pháp kiểm soát
  • Lý thuyết phục hồi sự tập trung
  • Sapporo’s Lavenders
  • Xây dựng môi trường bền vững dựa trên nguyên tác sinh thái cảnh quan: Hướng tiếp cận cho vùng đô thị.

Recent Comments

Mr WordPress on Hello world!

Archives

  • July 2021
  • August 2020
  • August 2019
  • August 2016
  • January 2016
  • October 2014
  • September 2014
  • April 2014
  • November 2013
  • May 2011

Categories

  • Uncategorized
  • Urban

Meta

  • Register
  • Log in
  • Entries feed
  • Comments feed
  • WordPress.com

Create a free website or blog at WordPress.com.

Privacy & Cookies: This site uses cookies. By continuing to use this website, you agree to their use.
To find out more, including how to control cookies, see here: Cookie Policy
  • Follow Following
    • The Nature of The Beauty
    • Already have a WordPress.com account? Log in now.
    • The Nature of The Beauty
    • Customize
    • Follow Following
    • Sign up
    • Log in
    • Report this content
    • View site in Reader
    • Manage subscriptions
    • Collapse this bar
 

Loading Comments...